Ông Huấn Vũ là phó đội Hãn tiền thuyền trong Hãm cơ của đền Vĩnh dinh một hôm đang nhồi bùn trát nhà, bỗng nhiên ngã ra, chân tay cứng đờ, mình ngay như cây gỗ, nóng như lửa đốt, tay không thể gần được, đờm như kéo cưa, mắt nhắm lại miệng cắn chặt, mê đặc không biết gì, may được đại tiểu tiện bí, miệng không há, mắt không trông thẳng, như thế đã hai ngày đêm, đã qua tay 4, 5 thầy thuốc chữa, hoặc dùng Nam tinh, Bán hạ để trừ đờm; hoặc dùng Long não, Xạ hương để thông khiếu, thay nhau cho uống bừa bãi, nhưng không thầy nào không cho là trúng phong, dùng toàn thuốc phong cho là đúng chứng, mà bệnh không chút bớt, thế như thoát đến nơi. Lúc này lại sinh ra chứng trực thị miệng há hốc, đại tiểu tiện tự són ra, tay chân lạnh toát, mình cứng đơ, không trở tráo được, nguy cấp quá lắm, nhà đó mới đi mời thầy thuốc họ Lâm đến chẩn trị (họ Lâm là thầy thuốc điều hộ cho quan quân, rất được kính trọng) cũng nói là: “Sáu mạch trầm tuyệt chứng chết đã rõ, không còn lẽ nào sống được”, rồi ra về. Vợ con nhà đó thấy họ Lâm nói quyết không thể nào sống được, kêu khóc van xin cho về quê, trong đội đó đã cấp cho tiền ăn đường. Nhân lúc tôi có việc qua đó, gặp họ Lâm, tôi hỏi: “Tiên sinh đi đâu?”. Họ Lâm kể hết nguyên cớ đi xem bệnh, nguyên ông Huấn Vũ này là người thuần cẩn, đối với tôi rất tốt. Tôi biết là bệnh trúng, kéo họ Lâm trở lại hỏi thăm. Tôi thấy người đó mắt tuy trực thị nhưng con ngươi còn chuyển động; tay chân tuy lạnh nhưng thân thể còn hơi ôn, bệnh nhân thấy tôi đến nhìn tôi ứa nước mắt, tôi biết là người mê. Xem mạch Xung dương, mạch Thái khê thì vẫn hữu lực hữu trầm như thường, tôi hỏi kỹ đầu đuôi, biết là nhầm thuốc, chớ không phải tự bệnh. Vả lại chứng trúng phong, đều bởi hư mà sinh ra, trong đó dù cảm tà dù ghé tà có khác nhau, nhưng chủ yếu đều do âm dương đều hư, bản khí của năm tạng vốn tự sinh ra bệnh làm cho khí ở trong bị hao hụt sinh ra lạnh toát, dù ngoài có chứng phong, cũng chỉ là giả tượng đó thôi. Phàm chứng nội thương thì khí bốc ngược lên, khí có dư thì sinh hỏa, hỏa thịnh thì sinh phong, phong đi thì thủy động, thủy trào lên thành đờm, cho nên tuy gọi là khí, là hỏa, là đờm, thực ra cũng là một nguồn gốc, rút cục không ngoài hai tạng Can và Thận, vì Can âm không đủ là do Thận thủy bị suy hao, thủy là nguồn sinh ra huyết, huyết không sinh dưỡng được âm mà sinh ra cứng đờ; thủy không chế ước được hỏa mà hỏa bốc mạnh. Cho nên Đông Viên chủ về khí là nói về gốc; Hà Gian chủ hỏa, Đan Khê chủ đàm là nói về ngọn. Người khéo chữa bệnh trong lúc nguy cấp, chỉ nên bổ dương là chủ yếu, vì dương là đầu của sự giữ gìn sinh mạng.
Khi thế nguy đã yên lại, nên lấy sự bồi bổ tinh huyết của chân âm làm cơ sở trừ bệnh. Huống phong là từ hỏa mà sinh ra, hỏa từ chân âm kém mà sinh ra, một khi có đủ âm huyết thì phong với hỏa tự nhiên dập tắt. Tại sao các thầy thuốc trước không xét rõ lẽ đó, dùng nhiều thuốc phong quá thì huyết lại hao đi, cho uống Não, Xạ thì khí càng bốc đi, cho nên lúc đầu nhắm mắt cắn răng vì dùng thuốc táo quá mà huyết khô; huyết nguy Can cấp, mà há mồm đờ mắt; lúc đầu đại tiện bí mình nóng, vì dùng lương dược nhiều quá thì hỏa uất mà chân tay lạnh, Vị bại mà ỉa chẩy; lúc đầu tiểu tiện bế, vì khí hao đi cho nên Phế mất chức tiết chế mà són đái. Tuy ác chứng đủ cả nhưng Thận là cơ bản là tiên thiên của sự sống; Tỳ Vị là bộ máy sinh hóa của hậu thiên; Mạch Xung dương và Thái khê hãy còn rõ ràng còn hy vọng sống. Tôi bảo vợ con nhà đó rằng: “Bệnh này tuy khó khăn thực, nhưng tôi hết sức, tất cứu vãn được”, vả lại cụ thân sinh ông này với tôi có thâm tình với nhau, tôi không nỡ bỏ. Vợ con người đó đều van lạy xin cứu chữa. Họ Lâm ở cạnh cười mà rằng: “Ông chữa sống được bệnh nhân này thực là người thần, tôi xin đi hầu ông, không dám làm thuốc nữa!”. Lúc đó tôi thấy họ Lâm trọc tức, tuy lòng muốn cứu sống người 10 phần, mà lòng căm giận người cũng 10 phần. Tôi cũng nói: “Tôi không chữa khỏi được bệnh này, thề cũng không dám làm thuốc nữa!”. Nói xong, mỗi người đi một ngả. Tôi liền chế đại tễ Sâm phụ thang cho uống, hết hai tễ, từ giờ Ngọ đến sau giờ Mùi, chân tay nóng lại như trước, mắt đã nhắm được lim dim, lưỡi đã duôi thè ra thụt vào được, duy ở rốn nóng như lửa, tôi mừng nói: “Chân dương đã hồi, không lo gì nữa”, liền chế bài Bát vị làm một thang to, gia Ngưu tất, Đỗ trọng, Ngũ vị, uống luôn 3 tễ thì quả nhiên thấy mắt mở nhắm được, miệng nhai nuốt được, trở mình được, bụng biết đói, da biết đau ngứa, đại tiểu tiện dần được điều hòa, nhưng chân tay chưa co duỗi được, nói năng còn ú ớ, tôi lại chế bài Bát vị, bỏ Phụ tử, nghĩa là thiên trọng về tinh huyết của chân âm gia Ngưu tất, Đỗ trọng, Đương quy, Bạch thược, Lộc nhung làm viên, chiêu với bằng nước gừng loãng, uống xen với thang Quy tỳ, bỏ Mộc hương gia Quế tâm. Điều bổ như thế hơn một tháng thì khỏi hết các chứng, đi lại như thường, mà khí lực tinh thần lại khỏe hơn trước. Đó là tôi có cái công cứu sống, mà nhà kia thì có lòng mến đức nhớ ơn, không cần phải nói. Riêng họ Lâm trọc tức quá lời, sau mỗi lần gặp tôi có ý bẽn lẽn, tôi cũng nể không nhắc đến. Càng thấy câu: “Chữa bệnh tất phải tìm đến gốc, chữa ngàn người không sểnh một người” thực đúng không sai. Người không tinh, hễ thấy thốt nhiên ngã lăn ra liền cho là phong, ví như một cái cây, gốc rễ vững vàng, dù rằng gió táp mưa sa, cũng không siêu đổ được, mà đã đến phải siêu đổ, đều là do gốc rễ không vững chắc cả.